Calcium channel blockers for inhibiting preterm labour
James F King2, Vicki Flenady1, Dimitri Papatsonis3, Gustaaf Dekker4, Bruno Carbonne5
Editorial group: Cochrane Pregnancy and Childbirth Group.
Publication status and date: Edited (no change to conclusions), published in Issue 3, 2010.
Review content assessed as up-to-date: 19 September 2002.
Tổng quan: Sanh non góp phần lớn cho bệnh suất và tử suất chu sinh và sanh non chiếm khoảng 6% – 7% các trường hợp sanh tại các nước phát triển. Có nhiều thuốc được dùng để ngăn cơn co tử cung. Thuốc giảm co được dùng phổ biến nhất là betamimetic. Mặc dù nó gây trì hoãn cuộc sanh, betamimetic không làm cải thiện dự hậu chu sinh và nó thường gây khó chịu và ngay cả các tác dụng phụ bất lợi trên mẹ và thai. Có nhiều quan tâm hơn với thuốc chẹn kênh calci vì khả năng hấp thu qua đường uống tốt và hiệu quả.
Mục tiêu: Để đánh giá hiệu quả trên mẹ, dự hậu của trẻ sơ sinh và thai của thuốc chẹn kênh calci mà được sử dụng như là thuốc giảm co ở những phụ nữ chuyển dạ sanh non.
Chiến lược tìm kiếm: Chúng tôi tìm kiếm danh bạ các nghiên cứu trong nhóm thai kỳ và chuyển dạ Cochrane (tháng 10/2002), danh bạ các nghiên cứu có nhóm chứng trên Cochrane (Thư viện Cochrane 2002, số 2), MEDLINE (1965 – tháng 6/2002), EMBASE (1988 – tháng 6/2002) và các bài báo lưu hành (1997 – tháng 6/2002). Chúng tôi liên lạc với các nhà chuyên môn có uy tín và tham khảo các tài liệu có liên quan. Chúng tôi cập nhật danh bạ các nghiên cứu của nhóm thai kỳ và chuyển dạ của Cochrane đến 4/1/2010 và gộp vào các kết quả của phân nhóm.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các nghiên cứu ngẫu nhiên đã và chưa xuất bản mà thuốc chẹn kênh calci được dùng như là thuốc giảm co cho trong chuyển dạ có tuổi thai từ 20 – 36 tuần.
Thu thập và phân tích dữ liệu: Các phương pháp chuẩn của nhóm cộng tác Cochrane và nhóm thai kỳ và chuyển dạ được sử dụng. Đánh giá chất lượng phương pháp và trích dữ liệu được thực hiện một cách độc lập bởi 3 tác giả. Các thông tin bổ sung vào sẽ được truy tìm để có thể đánh giá chất lượng phương pháp và kiểm soát theo phương pháp phân tích “ intention to treat”. Phân tích gộp được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của thuốc chẹn kênh calci so với bất kỳ yếu tố giảm co khác. Kết quả được trình bày bằng nguy cơ tương đối cho biến phân loại và khác biệt trung bình cho biến liên tục.
Kết quả: 12 nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng bao gồm 1029 phụ nữ. Khi so sánh với bất kỳ yếu tố giảm co khác (chủ yếu là betamimetic), thuốc chẹn kênh calci giảm số phụ nữ sanh trong vòng 7 ngày (nguy cơ tương đối 0.76; KTC 95% 0.6 – 0.97) và sanh trước 34 tuần tuổi thai (nguy cơ tương đối 0.83; KTC 95% 0.69 – 0.99). Thuốc chẹn kênh calci còn giảm số phụ nữ phải ngưng điều trị do tác dụng bất lợi của thuốc (nguy cơ tương đối 0.14; KTC 95% 0.05 – 0.36), hôi chứng suy hô hấp sơ sinh (nguy cơ tương đối 0.63; KTC 95% 0.46 – 0.88), viêm ruột hoại tử (nguy cơ tương đối 0.21; KTC 95% 0.05 – 0.96), xuất huyết não thất (nguy cơ tương đối 0.59; KTC 95% 0.36 – 0.98) và vàng da sơ sinh (nguy cơ tương đối 0.73; KTC 95% 0.57 – 0.93).
Kết luận: Khi giảm co được chỉ định cho phụ nữ chuyển dạ sanh non, thuốc chẹn kênh calci được lựa chọn nhiều hơn các thuốc giảm co khác như betamimetic. Hướng nghiên cứu trong tương lai tập trung vào ảnh hưởng của các công thức dùng và các liều lượng khác nhau trên dự hậu của mẹ và sơ sinh.
* Phụ chú:
– Thuốc chẹn kênh calci thường dùng là nifedipine.
– Phân tích theo phương pháp ‘ Intention to treat”: là phương pháp tất cả các trường hợp sau khi đã chọn vào nhóm nghiên cứu mà không tham gia tiếp tục hoặc xin chuyển nhóm can thiệp đều phải được phân tích số liệu đầy đủ. Ngược lại là phương pháp ‘Per Protocol”: các trường hợp không tiếp tục tham gia hoặc đổi nhóm sẽ được loại bỏ nghiên cứu. Intention to treat có giá trị hơn.
Người dịch: BS Phong, khoa Sản – BVĐKTTAG