Những can thiệp điều trị chốc

Interventions for impetigo

Sander Koning1, Arianne P Verhagen1, Lisette WA van Suijlekom-Smit2, Andrew D Morris3, Christopher Butler4, Johannes C van der Wouden5

Editorial group: Cochrane Skin Group.

Publication status and date: Edited (no change to conclusions), published in Issue 1, 2009.

Vấn đề: Chốc là tình trạng nhiễm khuẩn da nông thông thường, thường gặp nhất ở trẻ em. Không có trị liệu chuẩn và hướng dẫn điều trị  rộng rãi.Các lựa chọn điều trị bao gồm nhiều longại kháng sinh  uống và bôi khác nhau cũng như là chất diệt khuẩn.

Mục tiêu: Nhằm đánh giá hiệu quả điều trị chốc, bao gồm cả việc hồi phục tự nhiên.

Chiến lược tìm kiếm: Chúng tôi tìm kiếm các bài đăng thực nghiệm chuyên về da (3/2002), Trung tâm đăng kí các bài thực nghiệm đối chứngCochrane (CENTRAL, số 1 2002), đăng kí nghiên cứu quốcgia (2002), MEDLINE (từ 1966 đến 1/ 2003), EMBASE (từ 1980 đến 03/ 2000) và LILACS (10/ 2001). Chúng tôi tìm kiếm thủ công sách da liễu hằng niên (1938 đến 1966), sách thuốc trị liệu hàng năm (1949 đến 1966), dùng các tài liệu tham khảo các bài báo và tiếp xúc các công ty dược.

Tiêu chí lựa chọn: Điều trị thực nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đối với chốc bóng nước và chốc không bóng nước, chốc tiên phát và chốc thứ phát.

Thu thập và phân tích dữ liệu: Các bước thu thập dữ liệu được thực hiện bởi 2 tác giả  độc lập. Chúng tôi tiến hành đánh giá chất lượng và thu thập dữ liệu vào 2 giai đoạn  riêng biệt

Kết quả chính: Chúng tôi có 57 NC gồm 3533 người tham gia trong tổng số đó có 20 nghiên cứu điều trị bằng đường uống khác nhau, và 18 nghiên cứu điều trị tại chỗ khác nhau.

Điều trị khỏi hoặc cải thiện: Kháng sinh tại chổ chỉ ra rằng tần suất khỏi bệnh tốt hơn giả dược(chỉ số odds gộp 6.49,95% độ tin cậy 3.93 đến 10.73) và không có kháng sinh tại chổ nào  trội hơn(chỉ số odds mupirocin và fusidic acid 1.76, 95% độ tin cậy 0.69 đến 2.16). Mupirocin tại chổ thì tốt hơn erythromycin uống (chỉ số odds gộp 1.22, 95% độ tin cậy 1.05 đến 2.97). Trong hầu hết các so sánh khác chỉ ra rằng kháng sinh uống và tại chỗ không có sự khác biệt đáng kể về tần suất khỏi, cũng như không khác nahu giữa các kháng sinh uống. Penicillin thì kém hơn  erythromycin và cloxacillin và rất ít chứng cứ sử dụng các dung dịch khử khuẩn làm cải thiện chốc.

Tác dụng phụ: Các tác dụng phụ được báo cáo là rất thấp. Trị liệu bằng kháng sinh uống gây ra nhiệu tác dụng phụ hơn là kháng sinh tại chổ, đặc biệt tác dụng phụ lên dạ dày ruột.

Kết luận của tác giả: Dữ liệu về khỏi tự nhiên của chốc còn thiếu. NC đối chứngvới giả dược thì hiếm. Có ít bằng chứng về giá trị các chất diệt khuẩn. Có bằng chứng tốt về mupirocin và fusidic acid tại chỗ là như nhau hoặc có hiệu quả hơn  điều trị đường uống đối với những người có bệnh khu trú. Không rõ ràng nếu giả định rằng dùng kháng sinh uống thì tốt hơn kháng sinh tại chổ ở những bệnh nhân chốc lan rộng. Fusidic acid và mupirocin có hiệu quả như nhau. Penicillin không có hiệu quả như hầu hết các loại kháng sinh khác. Nên xem xét các tác nhân kháng kháng sinh để lựa chọn cách trị liệu.

Bs Ngọc Bích  Khoa Da Liễu – BVĐKTTAG

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)