Antiplatelet agents for preventing pre-eclampsia and its complications
Lelia Duley1, David J Henderson-Smart2, Shireen Meher3, James F King4
Editorial group: Cochrane Pregnancy and Childbirth Group.
Publication status and date: Edited (no change to conclusions), published in Issue 1, 2009.
Tổng quan: Tiền sản giật (TSG) là do thiếu hụt yếu tố nội mạch prostacyclin, một yếu tố giãn mạch và dư thừa yếu tố thromboxane, một yếu tố co mạch và kích thích kết tập tiểu cầu. Điều này dẫn đến giả thiết rằng thuốc kháng tiểu cầu, đặc biệt là liều thấp aspirin, có thể dự phòng TSG.
Mục tiêu: Nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của thuốc kháng tiểu cầu cho phụ nữ có nguy cơ TSG.
Chiến lược tìm kiếm: Chúng tôi tìm trên danh bạ các nghiên cứu của nhóm thai kỳ và chuyển dạ Cochrane (tháng 7/2006), Các nghiên cứu có nhóm chứng trên danh bạ trung tâm Cochrane (thư viện Cochrane 2005, số 1), EMBASE ( 1994 – 11/2005) và tìm kiếm thủ công các biên bản hội nghị quốc tế và châu âu về tăng huyết áp thai kỳ.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh thuốc kháng tiểu cầu với ngay cả placebo hoặc không điều trị được chọn vào. Nghiên cứu bán ngẫu nhiên được loại trừ. Đối tượng là phụ nữ có thai có nguy cơ TSG. Các can thiệp là so sánh bất kỳ loại thuốc kháng tiểu cầu (như aspirin liều thấp hoặc dipyridamole) với ngay cả placebo hoặc không điều trị.
Thu thập và phân tích dữ liệu: Hai tác giả đánh giá nghiên cứu để chọn vào và trích dữ liệu một cách độc lập.
Kết quả: 59 nghiên cứu (37,560 phụ nữ) được chọn. Giảm 17% nguy cơ (RRR*) TSG ở nhóm dùng kháng tiểu cầu ((46 nghiên cứu, 32,891 phụ nữ, nguy cơ tương đối 0.83, KTC 95% 0.77 – 0.89), số cần điều trị (NNT*) 72 (52 – 119). Mặc dù khác biệt không có ý nghĩa thống kê về RR dựa vào nguy cơ mẹ, gia tăng có ý nghĩa trong giảm nguy cơ tuyệt đối (ARR*) TSG ở nhóm nguy cơ cao (khác biệt nguy cơ (RD) -5.2% (-7.5 – -2.9), NNT 19 (13 – 34)) so sánh với phụ nữ nguy cơ trung bình (RD) -0.84% (-1.37, -0.3), NNT 119 (73- 333)).
Kháng tiểu cầu làm giảm 8% nguy cơ (RRR) sanh non ((29 nghiên cứu, 31,151 phụ nữ, RR 0.92, KTC 95% 0.88 – 0.97); NNT 72 (52 – 119), giảm 14% nguy cơ tử vong thai hoặc tử vong sơ sinh (40 nghiên cứu, 33,098 phụ nữ, RR 0.86, KTC 95% 0.76 – 0.98); NNT 243 (131 – 1,666) và giảm 10% thai nhỏ hơn so với tuổi thai (36 nghiên cứu, 23,638 phụ nữ, RR 0.9, KTC 95% 0.83 – 0.98). Khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa nhóm điều trị và nhóm chứng cho bất kỳ các kết cục khác.
Kết luận: Thuốc kháng tiểu cầu, nhất là liều thấp aspirin, có lợi ích trung bình khi dùng trong dự phòng TSG và hậu quả của nó. Trong tương lai cần đánh giá nhóm phụ nữ nào có lợi nhất, thời điểm tốt nhất để bắt đầu và liều lượng.
Người dịch: Bs Phong – khoa Sản – BVĐKTTAG