Phẫu thuật so với không phẫu thuật trong điều trị hội chứng ống cổ tay

Cochrane Database Syst Rev. 2008 Oct 8;(4):CD001552.

Surgical versus non-surgical treatment for carpal tunnel syndrome.

Verdugo RJSalinas RACastillo JLCea JG.

Source: Department of Neurology, Faculty of Medicine, Universidad de Chile, Santiago, Region Metropolitana of Santiago, Chile. rverdugo@med.uchile.cl

TỔNG QUAN: Hội chứng ống cổ tay là do chèn ép thần kinh giữa trong cổ tay.Các triệu chứng thông thường là cảm giác kiến bò, tê và đau ở bàn tay có thể lan đến cẳng tay hay vai. Đa số các trường hợp có triệu chứng và được điều trị không phẫu thuật.

MỤC TIÊU: Mục tiêu nhằm so sánh hiệu quả của điều trị phẫu thuật hội chứng ống cổ tay với điều trị không phẫu thuật.

CHIẾN LƯỢC NGHIÊN CỨU: Chúng tôi tìm các thử nghiệm nhóm bệnh lý thần kinh cơ đã đăng ký ở Cochrane (tháng 1 năm 2008), MEDLINE (tháng 1 năm 1966 đến tháng 1 năm 2008), EMBASE (tháng 1 năm 1980 đến tháng 1 năm 2008) và LILACS (tháng 1 năm 1982 đến tháng 1 năm 2008).Chúng tôi đã xem thư mục các tài liệu tham khảo và liên hệ với các tác giả này để lấy thêm các thông tin về các nghiên cứu khác, đã công bố hay không công bố.

TIÊU CHUẨN CHỌN LỌC: Chúng tôi chọn tất cả các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và bán ngẫu nhiên có so sánh điều trị phẫu thuật và không phẫu thuật.

THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU: Hai tác giả đánh giá độc lập việc tuyển chọn các thử nghiệm này.

KẾT QUẢ CHÍNH: Trong lần cập nhật này, chúng tôi chọn được 4 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiện (RCT) gồm tổng cộng có 317 người tham gia . 3 thử nghiệm có 295 người tham gia, trong đó 148 người được chỉ định phẫu thuật và 147 người được điều trị không phẫu thuật, cho biết thông tin về kết quả với kết cục chính là cải thiện sau 3 tháng theo dõi. Nhóm bệnh nhân đánh giá phẫu thuật có lợi với RR gộp là 1.23 (KTC 95%:1.04 – 1.46).Hai thử nghiệm có 245 người tham gia cho biết kết quả sau 6 tháng, cũng ủng hộ phẫu thuật (RR 1.19, 95% Cl 1.02 đến 1.39). Hai thử nghiệm đã báo cáo có sự cải thiện lâm sàng sau 1 năm theo dõi. Có 198 bệnh nhân ủng hộ việc điều trị phẫu thuật  với RR 1.27 (KTC 95%: 1.05- 1.53). Chỉ có một thử nghiệm mô tả sự thay đổi thông số sinh lý thần kinh trong cả hai nhóm, cũng ủng hộ phẫu thuật với RR 1.44 (KTC 95%  1.05 – 1.97). Hai thử nghiệm cho là cần phẫu thuật trong thời gian theo dõi, bao gồm 198 bệnh nhân. RR ước lượng gộp này cho thấy có một tỷ lệ đáng kể các bệnh nhân được điều trị nội khoa mong muốn được phẫu thuật, vả lại  nguy cơ phải phẫu thuật lại ở các bệnh nhân đã được phẫu thuật thì thấp (RR= 0.04, KTC 95%: 0.01- 0.17). Các biến chứng của phẫu thuật và điều trị nội khoa được mô tả ở hai thử nghiệm với 226 người tham gia. Mặc dù tỷ lệ xảy ra biến chứng cao trong cả hai nhóm, nhóm phẫu thuật có biến chứng cao hơn (RR 1.38, KTC 95%: 1.08- 1.76).

KẾT LUẬN CỦA TÁC GIẢ: Điều trị phẫu thuật hội chứng ống cổ tay làm giảm bớt đáng kể các triệu chứng  và tốt hơn so với mang nẹp. Cần thêm nhiều nghiên cứu để xác định việc điều trị phẫu thuật cho BN với triệu chứng nhẹ và thử xem điều trị phẫu thuật có tốt hơn so với tiêm steroid.

Người dịch: BS  Lê Thái Long, Khoa CTCH, BV An Giang

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)