Mối liên hệ giữa việc sử dụng máy thông khí bảo vệ phổi với thể tích lưu thông thấp hơn và kết cục lâm sàng ở bệnh nhân không có hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ards): một phân tích gộp

JAMA. 2012 Oct 24;308(16):1651-9. doi: 10.1001/jama.2012.13730.

Association between use of lung-protective ventilation with lower tidal volumes and clinical outcomes among patients without acute respiratory distress syndrome: a meta-analysis.

Serpa Neto ACardoso SOManetta JAPereira VGEspósito DCPasqualucci Mde ODamasceno MCSchultz MJ. Source: Department of Critical Care Medicine, ABC Medical School, Santo André, São Paulo, Brazil. aryserpa@terra.com.br

 

TÓM TẮT

Thở máy bảo vệ phổi với thể tích lưu thông thấp hơn giúp cải thiện kết cục lâm sàng ở bệnh nhân với ARDS. Cũng đã có những nghiên cứu về sử dụng thể tích lưu thông thấp hơn có lợi ích cho các bệnh nhân không có ADRS.

MỤC TIÊU

Nhằm xác định có hay không việc sử dụng thể tích lưu thông thấp hơn liên quan đến việc cải thiện kết cục điều trị ở các bệnh nhân thở máy không có ARDS.

NGUỒN DỮ LIỆU

MEDLINE, CINAHL, Web of Science, and Cochrane Central Register of Controlled Trials đến tháng Tám 2012.

CHỌN LỌC NGHIÊN CỨU

Các nghiên cứu phù hợp có đánh giá việc sử dụng thể tích lưu thông thấp so với thể tích lưu thông cao ở bệnh nhân không có ARDS lúc bắt đầu thở máy và được ghi nhận các tổn thương phổi tiến triển, tử vong chung, nhiễm trùng phổi, xẹp phổi và các thay đổi sinh hóa.

TRÍCH DỮ LIỆU

Ba nhà nghiên cứu trích xuất dữ liệu trên các đặc điểm của nghiên cứu, phương pháp và kết cục. Bất đồng được giải quyết theo nguyên tắc đồng thuận.

TỔNG HỢP DỮ LIỆU

Hai mươi bài báo  (2822 người tham gia) được đưa vào nghiên cứu. Nghiên cứu gộp sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định (fixed-effects model) cho thấy nguycơ tổn thương phổi tiến triển giảm (RR 0,33; KTC 95%, 0,23 – 0,47; I2 0%; số bệnh nhân cần điều trị [NNT]=11), tỷ lệ tử vong (RR 0,64; KTC 95% , 0,46 – 0,89; I2 0%; NNT, 23) ở bệnh nhân được điều trị với thể tích lưu thông thấp hơn. Kết quả của tổn thương phổi tiến triển như nhau khi phân tầng theo loại nghiên cứu (ngẫu nhiên so với không ngẫu nhiên) và có khác biệt  chỉ ở nhóm ngẫu nhiên cho nhiễm trùng phổi và nhóm không ngẫu nhiên cho tỷ lệ tử vong. Phân tích gộp sử dụng mô hình ảnh hưởng biến thiên (random-effects model) cho thấy, trong nhóm thở máy bảo vệ phổi, một tỷ lệ thấp hơn của nhiễm trùng phổi (RR 0,45, KTC 95%, 0,22 – 0,92, I2 32%, NNT, 26), thời gian nằm viện trung bình thấp hơn (0,91 [2,36] so với 8,87 [2,93] ngày, theo thứ tự; sự khác biệt trung bình chuẩn [SMD] 0,51; KTC 95% , 0,20 – 0,82; I2 75%), mức PaCO2 cao hơn trung bình (SD) (41,05 [3,79] so với 37,90 [4,19] mmHg, theo thứ tự; SMD -0,51; KTC 95%, -0,70 –  -0,32, I2 54%) và giá trị pH trung bình thấp hơn (SD) (7,37 [0,03] so với 7,40 [0,04], theo thứ tự, SMD 1,16; KTC 95%, 0,31 – 2,02; I2 96%) nhưng tỷ lệ PaO2 trung bình như nhau với phân xuất oxy hít vào (304, 40 [65,7] so với 312,97 [68,13], theo thứ tự; SMD 0,11; KTC 95%, -0,06 – 0,27; I2 60%). Thể tích lưu thông giữa 2 nhóm không ảnh hưởng đáng kể đến kết quả cuối cùng.

KẾT LUẬN

Ở những bệnh nhân không có ARDS, thở máy bảo vệ phổi với thể tích lưu thông thấp hơn có kết cục lâm sàng tốt hơn. Một vài hạn chế của phân tích gộp này là thiết kế hỗn tạp của thở máy (thở máy tại ICU hay phòng mổ) và thời gian thở máy.

Người dịch: BS Trung,khoa ICU, BV An giang

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)