Initial drug resistance and tuberculosis treatment outcomes: systematic review and meta-analysis.Ann Intern Med. 2008 Jul 15;149(2):123-34.
Lew W, Pai M, Oxlade O, Martin D, Menzies D.
Montreal Chest Institute,McGillUniversity,Montreal,Quebec,Canada.
Tổng quan: Mặc dù có sự gia tăng tần số lưu hành của bệnh lao kháng thuốc, hầu hết các nước có thu nhập thấp và trung bình điều trị với chế độ chuẩn, mà không đánh giá tính nhạy cảm thuốc.
Mục đích: Thực hiện tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp sự ảnh hưởng của kháng thuốc ban đầu và chế độ điều trị lên kết cục điều trị bệnh lao.
Nguồn dữ liệu: PubMed, trung tâm Cochrane cơ sở dữ liệu thử nghiệm lâm sàng, và EMBASE các nghiên cứu được công bố ở Anh từ năm 1965 đến tháng sáu năm 2007. Những công trình nghiên cứu bổ sung đã được xác định từ các tài liệu trích dẫn tham khảo.
Chọn lựa nghiên cứu: Ngẫu nhiên, thử nghiệm kiểm soát và nghiên cứu đoàn hệ điều trị chuẩn với những bệnh nhân lao phổi đã được xác định bằng cấy và không có điều trị trước. Thử nghiệm nhạy cảm thuốc với chủng phân lập trước điều trị được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân và những bệnh nhân điều trị thất bại hoặc tái phát.
Dữ liệu khai thác: Hai tác giả xem xét các nghiên cứu về phương pháp, kháng thuốc ban đầu, chế độ điều trị, và kết cục.
Tổng hợp dữ liệu: Tần suất mới mắc tích lũy gộp được tính với phân tích tổng với mô hình ảnh hưởng biến thiên. Liên quan giữa yếu tố nguy cơ và kết cục được xác định bằng cách sử dụng các phân tích phân tầng. Tỉ lệ kháng thuốc tích lũy với các chủng nhạy cảm hoàn toàn ban đầu là 0,8% (KTC 95%, 0,5% – 1,0%) so với 6% (KTC, 4% – 8%) với chủng đề kháng một thuốc ban đầu và 14% (CI, 9% đến 20%) với chủng đa kháng thuốc ban đầu. Thất bại và tái phát hầu hết có liên quan mạnh mẽ với kháng thuốc ban đầu. Thất bại cũng liên quan tới thời gian điều trị rifampin ngắn và không dùng streptomycin, nhưng tỷ lệ tái phát cao hơn khi điều trị rifampin ngắn và không dùng pyrazinamide.
Giới hạn: Một vài nghiên cứu bao gồm những người nhiễm HIV, và kết cục điều trị được gộp lại, mặc dù tính không đồng nhất đáng kể.
Kết luận: Kết cục điều trị chắc chắn là xấu khi có sự hiện diện của kháng thuốc ban đầu, nó là gợi ý quan trọng ở những nơi có nguồn lực hạn chế và kháng thuốc lưu hành.
Người dịch: BS Viên, ĐD Sinh – BVĐKTTAG