Deferasirox for managing iron overload in people with thalassaemia.
Bollig C, Schell LK, Rücker G, Allert R, Motschall E, Niemeyer CM, Bassler D, Meerpohl JJ.
Cochrane Database Syst Rev.
2017 Aug 15;8:CD007476. doi: 10.1002/14651858.CD007476.pub3.
TỔNG QUAN
Thalassemia là bệnh thiếu máu di truyền do hồng cầu không hiệu quả. Đặc biệt, những người bệnh thalassemia sẽ phát triển tình trạng quá tải sắt thứ phát do truyền máu thường xuyên. Điều trị thải sắt là cần thiết để ngăn ngừa các biến chứng lâu dài. Cả hai thuốc Deferoxamine và deferiprone đều có hiệu quả; tuy nhiên, cần phải có một đánh giá về hiệu quả và sự an toàn của thuốc uống thải sắt mới deferasirox ở người bị thalassemia.
MỤC TIÊU:
Để đánh giá hiệu quả và sự an toàn của deferasirox đường uống ở những người bị thalassemia và quá tải sắt.
PHƯƠNG PHÁP TÌM KIẾM:
Chúng tôi tìm kiếm sổ đăng ký thử nghiệm bệnh lí hemoglobin của nhóm rối loạn gen và xơ cứng nang: 12 tháng 8 năm 2016. Chúng tôi cũng tìm MEDLINE, Embase, Thư viện Cochrane, Biosis Previews, Web của Science Core Collection và ba đăng ký thử nghiệm: ClinicalTrials.gov; Hệ thống đăng ký thử nghiệm lâm sàng quốc tế của WHO; và Cổng thông tin điện tử của Cơ quan đăng ký thử nghiệm lâm sàng Đức: 06 và 07 tháng 8 năm 2015.
TIÊU CHÍ LỰA CHỌN:
Các nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên so sánh deferasirox với không điều trị hoặc giả dược hoặc với một điều trị thải sắt khác.
THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU:
Hai tác giả đánh giá độc lập nguy cơ sai lệch và trích xuất dữ liệu. Chúng tôi đã liên hệ với các tác giả nghiên cứu để biết thêm thông tin.
KẾT QUẢ :
Mười sáu nghiên cứu gồm 1807 người tham gia ngẫu nhiên (từ 23 đến 586 người). Mười hai nghiên cứu hai cánh đã so sánh deferasirox với giả dược (hai nghiên cứu) hoặc deferoxamine (bảy nghiên cứu) hoặc deferiprone (một nghiên cứu) hoặc kết hợp deferasirox và deferoxamine với deferoxamine đơn độc (một nghiên cứu). Một nghiên cứu đã so sánh sự phối hợp deferasirox và deferiprone với deferiprone và deferoxamine. Ba nghiên cứu ba cánh đã so sánh deferasirox với deferoxamine và deferiprone (hai nghiên cứu) hoặc kết hợp deferasirox và deferiprone với deferiprone và deferazirox đơn trị liệu tương ứng (một nghiên cứu). Một nghiên cứu bốn cánh đã so sánh hai liều deferasirox khác nhau để kết hợp với giả dược. Hai nghiên cứu (1 nghiên cứu về dược động học và 1 nghiên cứu tăng dần liều) so sánh deferasirox với giả dược (n = 47) ở những bệnh nhân thalassemia phụ thuộc vào truyền máu đã cho thấy rằng deferasirox dẫn đến thải sắt. Trong các nghiên cứu này, sự an toàn đã được chấp nhận và điều tra thêm trong các nghiên cứu phase II và phase III. 9 nghiên cứu (1251 người tham gia) cung cấp dữ liệu cho deferasirox điều trị chuẩn so với deferoxamine. Dữ liệu cho thấy hiệu quả tương tự có thể đạt được tùy thuộc vào tỷ lệ liều của deferoxamine và deferasirox. Trong nghiên cứu phase III, hiệu quả tương đương hoặc cao hơn đối với các marker trung gian ferritin và nồng độ sắt trong gan (LIC) chỉ có thể đạt được ở nhóm quá tải sắt nhiều với tỷ lệ trung bình là 1 mg deferasirox đến 1,8 mg deferoxamine tương ứng với liều trung bình là 28,2 mg mỗi ngày và 51,6 mg mỗi ngày. Hiệu quả tổng hợp trên các tỷ lệ liều thuốc khác nhau là: ferritin huyết thanh, chênh lệch trung bình (MD) 454,42 ng / mL (khoảng tin cậy 95% (CI) 337,13 đến 571,71) (bằng chứng chất lượng trung bình); LIC được đánh giá bằng sinh thiết hoặc SQUID, MD 2,37 mg Fe / g trọng lượng khô ( KTC 95% 1,68 đến 3,07) và phân tích đáp ứng, LIC 1 đến <7 mg Fe / g trọng lượng khô, tỉ số của 2 nguy cơ (RR) 0,80 (KTC 95% 0,69 đến 0,92) (bằng chứng chất lượng trung bình). Sự không đồng nhất đáng kể được quan sát có thể giải thích bằng các tỷ lệ liều khác nhau. Dữ liệu về tử vong (bằng chứng chất lượng thấp) và về sự an toàn ở liều điều trị thải sắt hiệu quả là rất hạn chế. Sự hài lòng của bệnh nhân tốt hơn với deferasirox trong số những người trước đây đã được điều trị deferoxamine, tỉ số của 2 nguy cơ (RR) 2,20 (KTC 95% 1,89 đến 2,57) (bằng chứng chất lượng trung bình). Tỷ lệ ngưng dùng thuốc tương tự nhau đối với cả hai loại thuốc (chứng cứ chất lượng thấp) .Đối với so sánh còn lại ở những người thalassemia phụ thuộc vào truyền máu, chất lượng của bằng chứng cho kết cục được đánh giá thấp đến rất thấp, chủ yếu là do số lượng người tham gia rất nhỏ. Bốn nghiên cứu (205 người) so sánh deferasirox với deferiprone; một trong số đó (41 người tham gia) cho thấy có một số người tham gia bị đau khớp nhiều hơn ở nhóm dùng deferiprone, nhưng do có nhiều loại tác dụng phụ khác nhau được báo cáo và so sánh nên kết quả này không chắc chắn. Một nghiên cứu (96 người) so sánh deferasirox và deferiprone với deferiprone và deferoxamine. Những người tham gia được điều trị với sự kết hợp của thuốc thải sắt uống tuân thủ tốt hơn so với những người được điều trị với deferiprone và deferoxamine, nhưng không có người tham gia nên ngưng nghiên cứu. Trong so sánh của deferasirox so với kết hợp của deferaxirox và deferiprone, và của deferiprone so với phối hợp deferasirox và deferiprone (một nghiên cứu, 40 người tham gia),deferasirox và deferoxamine so với deferoxamine đơn độc (một nghiên cứu, 94 người tham gia), chỉ có một vài kết cục liên quan đến bệnh nhân được báo cáo và không có sự khác biệt đáng kể. Một nghiên cứu (166 người tham gia) bao gồm những người thalassemia không phụ thuộc truyền máu và so sánh hai liều deferasirox khác nhau với giả dược. Điều trị bằng deferasirox làm giảm ferritin huyết thanh, MD -306.74 ng / mL (KTC 95% -398.23 đến -215.24) và LIC, MD -3.27 mg Fe / g trọng lượng khô (KTC 95% -4.44 đến -2.09) ( bằng chứng chất lượng trung bình), trong khi số người tham gia có các tác dụng phụ và tỷ lệ ngưng dùng thuốc là tương tự ở cả hai nhóm (chứng cứ chất lượng thấp). Không có người tham gia nào chết, nhưng số liệu về tử vong bị hạn chế do thời gian theo dõi chỉ một năm (bằng chứng chất lượng trung bình).
KẾT LUẬN CỦA TÁC GIẢ:
Deferasirox cung cấp một lựa chọn điều trị quan trọng cho những người bị thalassemia ứ sắt thứ phát. Dựa vào dữ liệu có sẵn, deferasirox dường như không tốt hơn deferoxamine với tỷ lệ thường được khuyến cáo là 1 mg deferasirox với 2 mg deferoxamine. Tuy nhiên, hiệu quả tương tự đạt được tùy thuộc vào liều và tỷ lệ deferasirox so với deferoxamine. Cho dù điều này sẽ dẫn đến hiệu quả tương tự và sẽ mang lại lợi ích tương tự trong dài hạn, như đã được cho thấy ở deferoxamine, cần được xác nhận. Dữ liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng về độc tính hiếm gặp và độ an toàn lâu dài vẫn còn hạn chế. Tuy nhiên, sau một cuộc thảo luận chi tiết về các lợi ích và nguy cơ, deferasirox có thể được đưa ra như là lựa chọn hàng đầu cho những cá nhân thích dùng deferasirox và có thể là một lựa chọn điều trị hợp lý cho những người không dung nạp hoặc không tuân thủ dùng deferoxamine .
Người dịch: BS.CKI Hồ Hiền Sang. Khoa tiêu hóa – Huyết học, BVĐKTT An Giang