Tái hẹp trong stent so sánh stent phủ thuốc thế hệ mới với bóng phủ thuốc: một phân tích gộp các nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát

Comparison of new-generation drug-eluting stents versus drug-coated balloon for in-stent restenosis: a meta-analysis of randomised controlled trials.

Cai JZ#1Zhu YX#1Wang XY#2Bourantas CV3,4Iqbal J5Zhu H1Cummins P6Dong SJ7Mathur A4Zhang YJ2.

BMJ Open. 2018 Feb 22;8(2):e017231. doi: 10.1136/bmjopen-2017-017231.

Tóm tắt

Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu này so sánh kết quả chụp mạch vành cũng như kết cục lâm sàng trên những BN bị tái hẹp trong stent (ISR – in stent restenosis) được can thiệp lại bằng stent phủ thuốc thế hệ mới (DES) so với bóng phủ thuốc (DCB).

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU:

Phân tích gộp này sử dụng dữ liệu từ các nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên trên PubMed, Cochrane Library, ClinicalTrials.gov và các trang web của các hội nghị tim mạch lớn.

ĐẶC ĐIỂM:

Chỉ những nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh stent phủ thuốc với bóng phủ thuốc mới được đưa vào phân tích gộp.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Những BN bị tái hẹp trong stent từ các nghiên cứu so sánh được chọn.

PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP:

Stent phủ thuốc thế hệ mới (New-generation DES) với bóng phủ thuốc (DCB).

KẾT CỤC LÂM SÀNG:

Khảo sát kết quả chụp mạch vành và kết cục lâm sàng bao gồm: tử vong do tim, tử vong do mọi nguyên nhân, nhồi máu cơ tim, tái can thiệp lại tổn thương đích (TLR – target lesion revascularization), tái can thiệp lại động mạch đích (TVR – target vessel revascularization), biến cố tim mạch chính (MACE) và huyết khối trong stent (stent thrombosis).

KẾT QUẢ:

Tiến hành phân tích 5 thử nghiệm bao gồm 913 bệnh nhân đủ điều kiện. Kết hợp phân tích kết quả chụp mạch vành cho thấy stent phủ thuốc DES có liên quan đến tăng đường kính lòng mạch vành cấp (-0.31 mm, KTC 95% -0.42 đến -0.20, p <0.001) và giảm hẹp đường kính (RR) (0.28; KTC 95% 0.02 đến 0.55; p = 0.04). Stent phủ thuốc DES làm giảm đáng kể nguy cơ tái can thiệp lại tổn thương đích (RR: 1,96; KTC 95% 1,17 đến 3,28; p = 0,01) so với bóng phủ thuốc DCB; tuy nhiên, không có ý nghĩa thống kê trong biến cố tim mạch chính (MACE) (RR: 1.21, 95% CI 0.67 to 2.17, p=0.53), nhồi máu cơ tim (RR: 1.21; KTC 95% CI 0.55 đến 2.48; p = 0.69) và tử vong do tim (RR: 1,80; KTC 95% 0,60 đến 5,39; p = 0,29).

KẾT LUẬN:

Các can thiệp với stent phủ thuốc thế hệ mới có xu hướng làm giảm đáng kể tình trạng hẹp đường kính lòng mạch và tái can thiệp lại tổn thương đích ở giai đoạn ngắn sau đó nhưng lại có biến cố tim mạch lớn không khác biệt (như nhồi máu cơ tim và tử vong do tim trên bệnh nhân tái hẹp trong stent mạch vành so với bóng phủ thuốc). Cần có các nghiên cứu lớn phù hợp theo dõi lâu dài để xác nhận những kết quả này.

Nguồn: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/29472254

Người dịch: BS Phạm Huỳnh Minh Trí, Khoa Tim Mạch – Lão Học, BVĐKTT An Giang

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)