Sự liên quan giữa dung dịch hydroxyethyl starch với tử vong và tổn thương thận cấp ở những bệnh nhân nặng cần bù dịch: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp

JAMA. 2013 Feb 20;309(7):678-88. doi: 10.1001/jama.2013.430.

Association of hydroxyethyl starch administration with mortality and acute kidney injury in critically ill patients requiring volume resuscitation: a systematic review and meta-analysis.

Zarychanski RAbou-Setta AMTurgeon AFHouston BLMcIntyre LMarshall JCFergusson DA.

Source: University of Manitoba, Department of Internal Medicine, Section of Critical Care, University of Manitoba, ON2056-675 McDermot Ave, Winnipeg, Manitoba R3E 0V9, Canada. ryan.zarychanski@cancercare.mb.ca

Tầm quan trọng:

Hydroxyethyl starch [HAESTERIL] thường được sử dụng để bù dịch trong hồi sức , tuy nhiên có những tác dụng bất lợi nghiêm trọng như tổn thương thận cấp và tử vong. Các thử nghiệm lâm sàng về hydroxyethyl starch còn nhiều mâu thuẫn. Hơn nữa, đã có nhiều bài nghiên cứu từ một tác giả đã bị loại bỏ vì hành vi sai trái khoa học.

Mục tiêu:

Đánh giá sự liên quan giữa sử dụng hydroxyethyl starch với tỷ lệ tử vong và tổn thương thận cấp.

Nguồn dữ liệu:

Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên từ MEDLINE, EMBASE, CENTRAL, Y tế toàn cầu, HealthSTAR, Scopus, Web of Science, , the International Clinical Trials Registry Platform (đến tháng 10 năm 2012), danh sách tài liệu tham khảo của các bài báo có liên quan, và y văn.

Chọn lựa nghiên cứu:

Hai nhà nghiên cứu độc lập xác định các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên so sánh hydroxyethyl starch với các loại dịch hồi sức khác ở những bệnh nhân bị bệnh nặng được bù dịch hồi sức.

Khai thác dữ liệu:

Hai nhà nghiên cứu độc lập thu thập dữ liệu bao gồm các đặc điểm dân số, can thiệp, kết cục, và các nguồn tài trợ. Nguy cơ sai lệch được đánh giá bằng cách sử dụng các nguy cơ của công cụ sai lệch, , sức mạnh của bằng chứng được đánh giá bằng phương pháp GRADE.

Kết quả:

Tất cả có 38 thử nghiệm được chọn so sánh giữa hydroxyethyl starch với dung dịch (DD) tinh thể, albumin, hoặc gelatin. Phần lớn các thử nghiệm đã được phân loại là có nguy cơ sai lệch không rõ ràng hoặc nguy cơ sai lệch cao. Nghiên cứu trên 10.880 bệnh nhân, nguy cơ tử vong ở BN được truyền hydroxyethyl starch là 1,07 (KTC 95%: 1,00 – 1,14; I2, 0%, nguy cơ tuyệt đối [AR], 1,20%; KTC 95%: -0,26% đến 2,66%). Nguy cơ này được tính cho cả 7 thử nghiệm được thực hiện bởi một tác giả mà sau này đã bị loại bỏ vì hành vi sai trái về khoa học. Nếu loại trừ 7 thử nghiệm này ( có 590 bệnh nhân) thì hydroxyethyl starch thì  nguy cơ tử vong (RR) trong số 10.290 bệnh nhân là 1,09; KTC 95%: 1,02 -1,17; I2, 0%; AR= 1,51%; KTC 95%:, 0,02% – 3,00%), nguy cơ dẫn đến suy thận trong số 8725 bệnh nhân là 1,27, KTC 95%:  1,09 – 1,47; I2, 26%; AR= 5,45%, KTC 95%: 0,44% – 10,47%), và tăng nguy cơ tăng sử dụng các liệu pháp thay thế thận trong số 9258 bệnh nhân là  1,32; KTC 95%: 1,15 – 1,50; I2, 0%; AR= 3,12%, KTC 95%: 0,47% – 5,78%).

Kết luận:

Ở các  bệnh nhân bị bệnh nặng đòi hỏi phải hồi sức bù khối lượng cấp tính, dùng dung dịch hydroxyethyl starch không làm giảm tỷ lệ tử vong kho so sánh với các loại dịch truyền khác. Hơn nữa, sau khi loại trừ 7 nghiên cứu được thực hiện bởi một tác giả có hành vi sai trái về khoa học thì DD hydroxyethyl starch còn làm tăng nguy cơ tổn thương thận cấp và tử vong, vì vậy sử dụng DD hydroxyethyl  trong hồi sức bù dịch cấp tính thì không bảo đảm việc an toàn cho BN.

Người dịch: BS Rạng, BV An giang 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)