Pralidoxim trong ngộ độc thuốc trừ sâu phosphor hữu cơ (op)- một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng

Pralidoxime in acute organophosphorus insecticide poisoning–a randomised controlled trial.

PLoS Med. 2009 Jun 30;6(6):e1000104. Epub 2009 Jun 30.

Eddleston M, Eyer P, Worek F, Juszczak E, Alder N, Mohamed F, Senarathna L, Hittarage A, Azher S, Jeganathan K, Jayamanne S, von Meyer L, Dawson AH, Sheriff MH, Buckley NA. Centre for Tropical Medicine, Nuffield Department of Clinical Medicine,University of Oxford,United Kingdom.

Đặt vấn đề: Ngộ độc thuốc trừ sâu OP là một vấn đề lớn của y tế cộng đồng toàn cầu, gây ra khoảng 200.000 trường hợp tử vong mỗi năm. Mặc dù, Tổ chức y tế thế giới (WHO) khuyến cáo sử dụng pralidoxim, hiệu quả của chất đối kháng (antidote) này vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi nhắm vào việc xác định liệu thêm pralidoxim chloride với atropine và chăm sóc hổ trợ có đem lại lợi ích không.

Phương pháp và kết quả: Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng về pralidoxim chloride (liều tải 2g trong hơn 20ph, tiếp theo truyền cố định 0,5g/giờ trong 7 ngày) so với muối ở BN tự tử thuốc trừ sâu OP. Tử vong là kết cục chính, kết cục phụ bao gồm đặt nội khí quản, thời gian đặt nội khí quản, và thời gian tử vong. Chúng tôi đo lường những dấu ấn cơ bản của sự phơi nhiễm và những dấu ấn dược động học về sự đáp ứng nhằm giúp diễn giải những kết cục lâm sàng. 235 BN nhận ngẫu nhiên pralidoxim (121 BN) hay giả dược (114 BN nhận nước muối). Pralidoxim  tạo ra sự tái hoạt hóa acetylcholinesterase hồng cầu đáng kể ở BN ngộ độc với diethyl và tái hoạt hóa mức độ trung bình ở BN ngộ độc với hỗn hợp dimethyl. Tử vong cao hơn không có ý nghĩa thống kê ở BN nhận pralidoxim: 30/121 (24,8%) ở nhóm nhận pralidoxim tử vong so với 18/114 (15,8%) ở nhóm chứng (tỉ số nguy cơ hiệu chỉnh [HR] 1,69, khoảng tin cậy 95%[CI] 0,88-3,26, p=0,12). Nhập số lượng acetylcholinesterase cơ bản đã định lượng và nồng độ OP trong huyết tương vào trong phân tích làm gia tăng HR ở BN điều trị pralidoxim so với giả dược, hơn nữa làm giảm thêm khả năng có lợi của nhóm có pralidoxim. Nhu cầu đặt nội khí quản tương tự  ở cả hai nhóm (pralidoxime 26/121 [21.5%], giả dược 24/114 [21.1%], HR đã hiệu chỉnh 1,27 [độ tin cậy 95%, 0.71-2.29]). Để giảm yếu tô gây nhiễm do uống nhiều nhiều thuốc trừ sâu khác nhau, chúng tôi phân tích thêm những BN được xác nhận ngộ độc đơn độc chlorpyrifos hoặc dimethoate, kết quả cho thấy không có chứng cớ là có lợi.

Kết luận: Mặc dù, tái hoạt hóa acetylcholinesterase hồng cầu ở BN ngộ độc thuốc trừ sâu OP diethyl nhưng chúng tôi không tìm được bằng chứng cho thấy chế độ điều trị này cải thiện sống còn hay làm giảm nhu cầu đặt nội khí quản ở BN ngộ độc thuốc trừ sâu OP. Nguyên nhân không tạo ra lợi ích cho BN vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu thêm nữa với những liều khác nhau hay những oxime khác nhau là cần thiết

Người dịch: BS Kim Phương, khoa ICU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)