Kháng sinh trong viêm phổi mắc phải – cộng đồng ở trẻ em

Antibiotics for community-acquired pneumonia in children.

Cochrane Database Syst Rev. 2010 Mar 17;3:CD004874.

Kabra SKLodha RPandey RM. Pediatric Pulmonology Division, Department of Pediatrics, All India Institute of Medical Sciences, Ansari Nagar, New Delhi, India, 110029.

Vấn đề: Viêm phổi gây ra bởi tác nhân vi trùng là nguyên nhân dẫn đến tử vong ở trẻ em ở những quốc gia có thu nhập thấp. Sử dụng kháng sinh sớm giúp cải thiện dự hậu.

Mục tiêu: Xác định hiệu quả của kháng sinh đối với Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng (CAP) ở trẻ em bằng cách so sánh các loại kháng sinh với nhau.

Chiến lược tìm kiếm: Chúng tôi tìm kiếm thông tin từ Trung tâm đăng ký các thử nghiệm có đối chứng Cochrane ( Thư viện Cochrane 2009, số 2) gồm những đăng ký nghiên cứu chuyên biệt của nhóm nhiễm trùng hô hấp cấp Cochrane, MEDLINE ( 1966-T9 / 2009 ), và EMBASE ( 1990 – T9/2009 ).

Tiêu chí lựa chọn: Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng ở trẻ em ở cả 2 giới tính, so sánh ít nhất 2 loại kháng sinh dùng cho Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng nhập viện hoặc điều trị ngoại trú.

Phân tích và thu thập dữ liệu: Hai nhà tổng quan độc lập rút ra số liệu từ các bài báo cáo đầy đủ của các nghiên cứu được chọn. 

Kết quả chính: Có 27 nghiên cứu, bao gồm 11928 trẻ, so sánh nhiều loại kháng sinh khác nhau. Không so sánh kháng sinh với giả dược. Đối với các bệnh nhân viêm phổi cộng đồng nhẹ ngoại viện, so sánh việc dùng Amoxycilline với Cotrimoxazole cho thấy có tương tự về tỉ lệ thất bại (OR 0.92; KTC 95% : 0.58 – 1.47) và tỉ lệ điều trị (OR 1.12; KTC 95% : 0.61 – 2.03)- 3 nghiên cứu gồm có 3952 trẻ. Tỷ lệ tái phát thì tương tự ở hai nhóm (OR 1.28; KTC 95% : 0.34 – 4.82). Ở những trẻ nhập viện do CAP nặng,so sánh giữa uống Amoxycillin với tiêm Penicillin hoặc Ampicillin thì có tỉ lệ thất bại tương tự  (OR 0.95; KTC 95% : 0.78 – 1.15) – 3 nghiên cứu gồm có 3942 trẻ. Tỉ lệ tái phát thì tương tự ở 2 nhóm (OR 1.28; KTC 95%: 0.34 – 4.82). Những ca CAP rất nặng, những trẻ dùng Chloramphenicol có tỷ lệ tử vong cao hơn so với những trẻ dùng Penicillin/Ampicillin kết hợp với  Gentamycin (OR 1.25; KTC 95% : 0.76 – 2.07). ( 1 nghiên cứu gồm 1116 trẻ)

Kết luận của tác giả: Có nhiều nghiên cứu với phương pháp học khác nhau để nghiên cứu các loại kháng sinh. Trong điều trị CAP ngoại trú, Amoxycillin là 1 thay thế cho Co-trimoxazole. Do số liệu giới hạn với các loại KS khác, Co-amoxyclavulanic acid và  Cefpodoxime có lẽ là thuốc dùng thay thế lần 2. Đối với viêm phổi nặng mà không kèm giảm oxy, uống Amoxycillin có lẽ là sự lựa chọn thay thế cho tiêm Penicillin ở các trẻ nhập viện, tuy nhiên, dể điều trị ngoại trú các bệnh nhân như vậy với kháng sinh uống, cần thực hiện nhiều nghiên cứu trong cộng đồng . Với các trẻ CAP nặng hoặc rất nặng nhập viện, Penicillin/Ampicillin kết hợp với Gentamycin thì ưu tiên hơn Chloramphenicol. Các thuốc dùng thay thế đối với các bệnh nhân như vậy là: Ceftrioxone, Levofloxacin, Co-amoxyclavulanic acid và  Cefuroxime. Cũng với nhiều nghiên cứu có giá trị, những thuốc này được dùng như bước điều trị thứ hai. Cần có nhiều thêm các nghiên cứu với số lượng mẫu nhiều hơn và phương pháp học tương tự để nghiên cứu các loại kháng sinh mới hơn.

Người dịch : Bs Nam Phương, Khoa Nhi

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)