Điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn trong thai kỳ

Arturo J Martí-Carvajal1, Guiomar E Peña-Martí2, Gabriella Comunián-Carrasco2

1IberoamericanCochrane Network,Valencia,Venezuela. 2Departamento de Obstetricia y Ginecología,Universidad de Carabobo,Valencia,Venezuela

Editorial group: Cochrane Pregnancy and Childbirth Group. Publication status and date: New, published in Issue 4, 2009.

Review content assessed as up-to-date: 13 March 2009.

Tổng quan: Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn (ITP) là rối loạn huyết học phổ biến gây ra do giảm tiểu cầu qua trung gian miễn dịch. Ảnh hưởng lên mẹ và thai của ITP trong thai kỳ còn nhiều bàn cãi. Theo dõi chuyển dạ ở sản phụ bị ITP vẫn còn tranh luận. Điều trị ITP trong thai kỳ thì phức tạp vì có sự khác biệt số lượng tiểu cầu của mẹ và thai.

Mục tiêu: Nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của các corticosteroid, immunoglobulin tiêm mạch, vinca alkaloids, danazol, dapsone và bất kỳ thuốc khác trong điều trị ITP thai kỳ.

Chiến lược tìm kiếm: Chúng tôi tìm trong danh bạ các nghiên cứu thai kỳ và chuyển dạ Cochrane ( tháng 2/2009), LILACS (1982 – tháng 2/2009), ClinicalTrials.gov (tháng 2/2009), các nghiên cứu có nhóm chứng hiện hành (16/2/2009), Google Scholar (16/2/2009) và các nghiên cứu chưa được xuất bản đã trích dẫn trong danh mục tài liệu tham khảo của các bài báo liên quan.

Tiêu chuẩn chọn: Các nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng so sánh bất kỳ các thuốc điều trị ITP trong thai kỳ.

Thu thập và phân tích: Hai tác giả tổng quan  độc lập đánh giá chất lượng phương pháp và trích dữ liệu. Bất kỳ bất đồng được giải quyết bằng thảo luận hoặc tham khảo với tác giả tổng quan thứ ba.

Kết quả: Tổng quan này bao gồm một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng (RCT) bao gồm 38 phụ nữ (41 thai) được ngẫu nhiên nhưng chỉ có 26 phụ nữ (28 thai) được phân tích.

RCT này so sánh ảnh hưởng của betamethasone (1.5 mg/ngày) với không điều trị cho kết quả khác biệt không có ý nghĩa thống kê về giảm tiểu cầu sơ sinh (nguy cơ tương đối RR 1.12, KTC (CI) 0.62 – 2.05) và chảy máu sơ sinh (RR 1.00, KTC 95% 0.24 – 4.13). Các nhà tổng quan kiểm soát theo phân tích intention-to-treat cho kết quả tương tự lần lượt là: RR 1.18, KTC 95% 0.57 – 2.45 và RR 1.05, KTC 95% 0.24 -4.61. Tử vong mẹ, tử vong chu sinh, băng huyết sau sanh và xuất huyết não sơ sinh không được nghiên cứu trong RCT này.

Kết luận: Bằng chứng hiện tại chỉ ra rằng: so sánh với không điều trị, betamethasone không giảm nguy cơ xuất huyết giảm tiểu cầu và chảy máu sơ sinh trong ITP thai kỳ. Thiếu bằng chứng ủng hộ dùng betamethasone cho điều trị ITP. Tổng quan cochrane này không cung cấp bằng chứng về các thuốc khác cho điều trị ITP thai kỳ. Tổng quan hệ thống này còn chỉ ra cần thiết có các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên với lực mẫu phù hợp và thiết kế tốt cho tình trạng bệnh này trong thai kỳ. Trừ khi các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên cung cấp bằng chứng về ảnh hưởng điều trị và sự cân đối giữa lợi ích và tác hại đã được chứng minh, người làm chính sách, bác sĩ không nên dùng betamethasone trong ITP thai kỳ. Bất kỳ các nghiên cứu tương lai về thuốc điều trị ITP thai kỳ nên kiểm tra sự thay đổi các kết cục quan trọng ở mẹ, trẻ sơ sinh hoặc cả hai bao gồm: tử vong mẹ, tử vong chu sinh, băng huyết sau sanh và xuất huyết não sơ sinh.

Người dịch: Bs Phong – Khoa Phụ sản

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)