Tác dụng của thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc ức chế thụ thể angiotensin ii trên mọi nguyên nhân tử vong, tử vong tim mạch, và biến cố tim mạch ở bệnh nhân bệnh đái tháo đường: một phân tích tổng hợp

JAMA Intern Med. 2014 May 1;174(5):773-85. doi: 10.1001/jamainternmed.2014.348.

Effect of Angiotensin-Converting Enzyme Inhibitors and Angiotensin II Receptor Blockers on All-Cause Mortality,Cardiovascular Deaths, and Cardiovascular Events in Patients With Diabetes Mellitus: A Meta-analysis.

Cheng J1, Zhang W2, Zhang X1, Han F1, Li X1, He X1, Li Q1, Chen J1.

Tầm quan trọng:

Thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEIs) và thuốc ức chế thụ thể angiotensin II (ARB) có thể có tác dụng khác nhau lên biến cố tim mạch (CV) ở những bệnh nhân đái tháo đường (DM).  

Mục tiêu:

Tiến hành phân tích tổng hợp để đánh giá riêng các tác dụng của ACEIs và ARBs trên mọi nguyên nhân tử vong, chết do tim mạch, và các biến cố lớn tim mạch ở những bệnh nhân đái tháo đường.

Nguồn dữ liệu:

Dữ liệu bao gồm MEDLINE (1966-2012),  EMBASE (1988-2012),  danh bạ trung tâm  Cochrane của các thử nghiệm đối chứng,  kỷ yếu hội nghị , và tham khảo danh sách các bài báo cáo.

Lựa chọn nghiên cứu:

Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên báo cáo tác dụng của thuốc ACEs và  thuốc  ARB ở bệnh nhân đái tháo đường trên mọi nguyên nhân tử vong,  chết do tim mạch, và các biến cố lớn tim mạch với một thời gian quan sát ít nhất 12 tháng. Nghiên cứu bị loại nếu được thử nghiệm chéo.

Khai thác dữ liệu và tổng hợp dữ liệu:

Dữ liệu kết quả nhị giá từ các thử nghiệm riêng được phân tích bằng cách sử dụng đo lường tỉ số  nguy cơ (RR)  và  khoảng tin cậy 95%  ( CI)  với  mô hình ảnh hưởng biến thiên.  Chúng tôi đánh giá sự khác biệt giữa ước tính của phân nhóm các thử nghiệm tương tác thuốc. Chúng tôi thực hiện phân tích hồi quy để xác định nguồn gốc của tính không đồng nhất.

Kết cục chính và đo lường:

Kết cục chính là mọi nguyên nhân tử vong và tử vong do tim mạch gây ra. Kết cục phụ là những tác dụng của ACEIs và ARBs trên các biến cố lớn tim mạch.

Kết quả:

Hai mươi ba của 35 nghiên cứu xác định so sánh ACEIs với giả dược hoặc thuốc thực sự (32. 827 bệnh nhân) và 13 nghiên cứu điều trị ARB so với không điều trị (nhóm chứng  ) (23. 867 bệnh nhân ).  Khi so sánh với nhóm chứng ( giả dược / điều trị thực sự ),  ACEIs làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân 13%  (RR, 0,87,  95% CI,  0,78-0,98 ),  chết do tim mạch 17% ( 0,83; 0,70-0,99 ),  và các biến cố lớn tim mạch 14% ( 0,86; 0,77-0,95 ),  bao gồm cả nhồi máu cơ tim 21% ( 0,79;  0,65-0,95 ) và suy tim 19% ( 0,81; 0,71-0,93 ).  Điều trị bằng ARB không tác dụng đáng kể mọi nguyên nhân tử vong (RR, 0.94,  95% CI,  0,82-1,08 ),  tỷ lệ  chết do tim mạch  ( 1,21 ; 0,81-1,80 ),  và các biến cố lớn tim mạch  (0,94; 0,85-1,01 )  ngoại teu72 với suy tim ( 0,70;  0,59-0,82 ).  Cả hai ACEIs và ARBs không làm giảm giảm nguy cơ đột quỵ ở bệnh nhân tiểu đường.  Phân tích hồi quy tổng hợp  cho thấy hiệu quả điều trị với thuốc ACEs  trên mọi  nguyên nhân tử vong và chết do tim mạch không thay đổi đáng kể theo trị số cơ bản ban đầu của huyết áp và protein niệu của bệnh nhân, cũng như loại thuốc ACEs dùng  và  BN có đái tháo đường hoặc không.

Kết luận:

Thuốc ức chế men chuyển Angiotensin giảm mọi nguyên nhân tử vong, tử vong tim mạch,  và các biến cố lớn tim mạch ở những bệnh nhân  đái tháo đường,  trong khi ARB không có lợi ích trên những kết cục này.  Như vậy, ACEIs nên được xem là liệu pháp đầu tiên để hạn chế tử vong thêm và tỷ lệ mắc bệnh trong quần thể này .

Người dịch: BS CKII Phạm Chí Hiền, BVĐKTT An Giang

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

1900585888 (bấm phím 1)